Mặc dù ngày nay, có nhiều tiến bộ trong phẫu thuật, đặc biệt là trong phẫu thuật khớp gối, nhưng những nguy cơ biến chứng vẫn còn. Tất cả các phẫu thuật, dù là nhỏ cũng phải dự phòng các biến chứng, vì chúng có thể từ nhỏ trở thành lớn và dẫn tới chết người. Cần cho người bệnh biết là chúng không phải thường xuyên gặp, nhưng cũng không được nói dối và dấu các biến chứng với người bệnh....
Trong khi khám bệnh, bạn không được do dự đặt ra các câu hỏi về các biến chứng, người phẫu thuât viên phải có trách nhiệm trả lời rõ ràng các câu hỏi của bệnh nhân. Phẫu thuật viên khớp gối là phẫu thuật viên sửa chức năng chứ không liên quan tới việc cứu người bệnh. Nên quyết định can thiệp phẫu thuật tuỳ thuộc vào bệnh nhân rất nhiều, đưa cho bệnh nhân những thông tin chỉ cho họ kết quả cũng như các nguy cơ gặp trong khi mổ để họ có thể tự lựa chọn những giải pháp điều trị cho phù hợp.
Liệt kê và mô tả một phần các biến chứng dưới đây giúp chúng ta khỏi quên các biến chứng thuộc loại phẫu thuật này mặc dù rất hiếm gặp.
|
Biến chứng trong quá trình mổ |
Rất hiếm gặp: ví như tổn thương động mạch khoeo, hay thần kinh mác bên, trong trường hợp mổ khó. Biến chứng này rất hiếm nhưng nó có thể trở nên rất nặng với bệnh nhân.
Gẫy xương đùi hay xương chày, đứt hay bong chỗ bám của gân bánh chè, gân cơ tứ đầu hay những thương tổn cấu trúc khác của khớp, ....
|
Biến chứng sau phẫu thuật: |
Đau xuất hiện một vài ngày sau mổ, nói chung bệnh nhân vẫn chịu được. Cải tiến các kỹ thuật mổ (sử dụng nội soi, không bất động sau mổ, cho đi sớm với nạng,...) sẽ có hiệu quả giảm đau nhiều với các thủ thuật ít sang chấn. Hơn nữa, những lời giải thích động viên của bác sĩ và phẫu thuật viên cũng làm cho người bệnh tin tưởng và tăng khả năng chịu đau lên rất nhiều. Nếu khi quá đau cần phải khám lại có hệ thống để tìm các biến chứng (là nguyên nhân của đau) ví dụ như tụ máu trong gối,.... Kết quả sau mổ lâu dài đôi khi có những đau rất dai dẳng mà không phải bao giờ cũng tìm ra nguyên nhân
Máu tụ trong gối. Mọi can thiệp đều có thể gây chảy máu, đặc biệt thuận lợi ở người bệnh dùng thuốc chống đông. Máu tụ thường biểu hiện bằng vết bầm tím (ecchymoses), sau đó chuyển sang xanh lá cây ,vàng,... mất đi sau một vài tuần. Đôi khi lượng máu tích tụ lại trong khớp tăng lên tạo thành máu tụ (hémarthrose) làm cho khớp gối sưng to, đau. Cần phải mổ lại để rửa sạch và lấy hết máu tụ.
Nhiễm trùng. Nhiễm trùng là nguy cơ chung của phẫu thuật. Nhưng với phẫu thuật khớp gối lại hiếm gặp, tuy nhiên nếu có thì rất nặng. Theo dõi trong những tuần đầu sau phẫu thuật, xuất hiện dấu hiệu: đau, sốt, gối sưng to, chảy dịch ở vết mổ.... Cần phải cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để biết rõ là loại vi khuẩn gì, và điều trị kháng sinh cho phù hợp. Mở lại gối để rửa sạch là rất cần thiết. Với cách này thông thường có thể chữa khỏi nhiễm trùng khớp gối.
Tắc mạch : Là hình thành các cục máu đông ở trong tĩnh mạch, nó có thể giải quyết được bằng điều trị chống đông dự phòng. Biến chứng này có thể đưa lại những nguy cơ rất nặng: nhồi máu phổi.
Loạn dưỡng thần kinh Là hội chứng có tính chất cứng gối sớm, phối hợp với đau và phù nề. Nguyên nhân của biến chứng này vẫn còn chưa biết. Người ta quan sát thấy hay xuất hiện ở những bệnh nhân lo lắng. Tiến triển theo hướng khỏi dần nhưng rất lâu (nhiều tháng hoặc nhiều năm). Hội chứng này đôi khi có thể để lại những di chứng như cứng khớp, hay đau. Để hiểu hơn về bệnh hãy tham khảo thêm bài "témoignage" trong tạp chí Le Monde.
Cứng gối Đây là nguy cơ của tất cả các can thiệp vào khớp gối. Cứng gối là do sự xơ dính ở trong khớp. Cần phải cho khớp gối vận động cưỡng bức dưới gây mê toàn thân, nếu muộn hơn thì phải mổ để giải phóng các dây chằng (giải phóng dây chằng nhờ kỹ thuật nội soi ). Luyện tập sau mổ có vai trò quan trọng trong việc phòng chống biến chứng này.
Biến chứng trên da. Sẹo mổ đau, hoặc có những vùng mất cảm giác, ngược lại có những vùng tăng cảm giác đau do xuất hiện u thần kinh (névrome) .... Chúng tôi còn thấy có cả những trường hợp hoại tử hay loét ở trên da.
|
Biến chứng riêng của kỹ thuật |
Trong một vài kỹ thuật có những biến chứng đặc biệt, liên quan tới loại phẫu thuật đó. Ví dụ như trong thay khớp có nguy cơ lỏng xi-măng , có những trường hợp không liền xương tạo khớp giả sau những đục xương sửa trục.
|
Kết quả phẫu thuật |
Kết quả không được như mong muốn: nguy cơ này thường có thể xảy ra do các nguyên nhân:
- Thất bại của phẫu thuật không được đúng theo mục đích ban đầu: trật lại xương bánh chè sau mổ cố định, tái phát lỏng khớp sau mổ tạo hình dây chằng, vẫn còn đau không như bệnh nhân muốn,....
-Bệnh khớp gối không thể chữa khỏi vĩnh viễn bằng phẫu thuật: đục xương sửa trục chữa các bệnh thoái hoá khớp, nhưng nó cũng không khỏi được lâu, nó giảm dần theo tiến triển của bệnh. Lấy bỏ sụn chêm, giải phóng được kẹt khớp, nhưng để lại nguy cơ thoái hoá khớp sau này,...
-Những biến chứng chúng tôi kể trên xảy ra cũng làm hạn chế tới kết quả của điều trị
Các di chứng liên quan tới các biến chứng của phẫu thuật gối. Các di chứng của nó hiếm khi nặng, đặc biệt mới có trường hợp (thoái hoá khớp, kẹt khớp, hay cắt cụt). Phần lớn là khỏi và không để lại một khó chịu nhỏ nào cho cuộc sống hàng ngày.
|
Biến chứng do gây mê |
Phẫu thuật khớp gối cần phải gây tê toàn thân hoặc gây tê vùng, như thế là có nguy cơ biến chứng.
Bất lợi và nguy cơ của gây mê toàn thân?
-Nôn mửa vào lúc tỉnh, ngày nay, biến chứng này trở nên ít hơn do tiến bộ về kỹ thuật và do thuốc gây mê mới tốt hơn. Các biến chứng trào ngược chất nôn vào phổi ngày càng hiếm gặp nếu tuân thủ đúng theo quy trình.
-Tuột ống duy trì thở cho bệnh nhân trong gây mê nội khí quản hay trong gây mê đặt ống thở Thanh quản.
-Gẫy răng có thể xảy ra khi đặt ống nội khí quản. Chính vì thế phải trình bày cho bác sĩ có răng giả không, có răng lung lay không khi khám bác sĩ gây mê.
-Mảng đỏ ở chỗ chọc tĩnh mạch thuốc tràn ra ngoài . Nó mất dần trong vài ngày.
-Tư thế kéo dài trên bàn chỉnh hình có thể đưa tới chèn ép dây thần kinh, nó đưa tới bại thần kinh, có trường hợp nặng gây liệt chân. Trong phần lớn các trường hợp, trở lại tình trạng bình thường sau một vài ngày hay một vài tuần.
-Giảm trí nhớ hay giảm độ tập trung có thể xảy ra một vài giờ sau khi gây mê.
-Có biến chứng nặng không thể hình dung được có nguy cơ chết người: sốc phản vệ, ngừng tim, ngẹt thở,... rất hiếm xảy ra. Chỉ thấy một vài trường hợp xảy ra trong tổng số hàng trăm nghìn trường hợp đã được gây mê.
Những bất lợi và nguy cơ của gây tê vùng ?
-Sau gây tê tuỷ sống hay ngoài màng cứng, cần phải theo dõi đau đầu. Cần thiết đôi khi phải cho bệnh nhân nằm nghỉ nhiều ngày và hoặc điều trị tại chỗ phối hợp
-Bí đái do liệt cơ bàng quang, cần thiết phải đặt xông đái tạm thời
-Đau tại điểm chọc kim ở phía sau lưng cũng hay gặp
-Chọc lại nhiều lần ở các bệnh nhân khó.
-Ngứa thoáng qua ở bệnh nhân dùng morphine hay dẫn chất của nó
-Rất hiếm , người ta có thể gặp các trường hợp giảm thính lực và thị lực.
-Tuỳ thuộc vào thuốc phối hợp, các rối loạn về thần kinh như quên, giảm khả năng tập trung có thể thấy vài giờ sau khi gây mê.
-Các biến chứng nặng hơn như là co thắt, ngừng tim, liệt vĩnh viễn , mất ít nhiều cảm giác có thể xảy ra tuy nhiên cực kỳ hiếm. Thấy có vài trường hợp được ghi lại trong khi đó có hàng trăm nghìn trường hợp được gây mê hàng năm.